Nguồn gốc và bản chất của ý thức

Kết cấu của ý thức

Ý thức là một hình ảnh tinh thần toàn vẹn về hiện thực khách quan, có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau như tri thức, tình cảm, ý chí… trong đó tri thức có vai trò quan trọng nhất.

  • Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới (kết quả của quá trình con người phản ánh về thế giới). Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người…
  • Tình cảm phản ánh xúc động của con người trước đối tượng của hiện thực.
  • Giữa tri thức và tình cảm có quan hệ chặt chẽ nhau, làm tiền đề cho nhau và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.
  • Ý chí là năng lực xác định mục tiêu cho hành động và quyết tâm thực hiện mục tiêu đó. Ý chí mạnh mẽ thường là trạng thái liên kết chặt chẽ giữa tri thức và tình cảm.

Nguồn gốc của ý thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc vật chất. Đó là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội

a. Nguồn gốc tự nhiên

  • Não người:
    • Não người có chức năng ý thức (Ý thức là chức năng của bộ não). Não là tổ chức vật chất phát triển cao nhất trong sinh giới, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Khoa học đã chứng minh rằng hoạt động sinh lý thần kinh của não bộ là cơ sở vật chất của ý thức
    • Não người có thuộc tính phản ánh. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này về những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong qúa trình tác động qua lại. Trong quá trình tiến hoá của tự nhiên, tổ chức vật chất càng phát triển cao thì năng lực phản ánh càng cao. Não ngưới là tổ chức vật chất phát triển cao nhất của sinh giới cho nên nó có năng lực phản ánh đặc biệt, đó là sự phản ánh của ý thức.
  • Sự tác động của thế giới khách quan vào não người: Não người nhận sự tác động từ thế giới khách quan thông qua các giác quan và hệ thống thần kinh cảm giác. Thế giới khách quan là đối tượng của cảm giác. Các thông tin do cảm giác đem lại được bộ não xử lý và phản ánh tạo ra ý thức.

Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới khách quan tác động vào bộ óc là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

b. Nguồn gốc xã hội

Năng lực phản ánh đặc biệt của ý thức còn được lý giải bởi nguồn gốc xã hội của nó, đó là lao động và ngôn ngữ

  • Lao động:
    • Lao động hiểu theo nghĩa là các hoạt động sáng tạo ra công cụ và sử dụng công cụ trong sản xuất để tạo ra của cải cho xã hôï và cho bản thân người lao động.
    • Vai trò của lao động trong quá trình hình thành ý thức:

+ Lao động hình thành nên con người và xã hội loài người. Chỉ trong xã hội loài người với các quan hệ xã hội, con người mới hình thành được ý thức. (Con vật không có quan hệ xã hội nên nó không có ý thức).

+ Lao động làm cho bàn tay, khối óc, tư duy phát triển. Ý thức xuất hiện không phải do sự tác động một cách tự nhiên của thế giới khách quan vào đầu óc con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm cho chúng phải bộc lộ những đặc tính, những kết cấu và những quy luật vận động của chúng thành những hiện tượng nhất định. Những hiện tượng ấy tác động vào não người, từ đó con người nhận thức được bản chất của thế giới hiện thực. Do vậy lao động là phương thức hình thành và phát triển ý thức.

+ Lao động là nguồn gốc hình thành ngôn ngữ. Sống trong xã hôi, con người có nhu cầu liên kết nhau, trao đổi thông tin với nhau, “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó”. Kết quả là ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động

  • Ngôn ngữ:
    • Ngôn ngữ đến lượt nó trở thành hiện thực trực tiếp của tư duy, ngôn ngữ càng phong phú thì thế giới đối tượng càng được mở rộng
    • Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện khái quát hóa và trừu tượng hóa hiện thực, giúp con người đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
    • Ngôn ngữ còn là phương tiện liên kết tư duy loài người qua các thế hệ làm cho ý thức mang tính xã hội sâu sắc. Như vậy ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy của con người và nhân loại
    • Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội quan hệ chặt chẽ nhau, trong đó nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định bản chất của ý thức là nguồn gốc xã hội

Bản chất của ý thức là gì

Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.

Như vậy, bản chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau đây:

1. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh.

– Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với cái phản ánh (tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất.

– Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.

2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.

Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế.

Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo.

Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào sự vật  một cách có định hướng, chọn lọc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà, cày ruộng, đào mương, xây cầu…). Chính vì thế, ý thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.

Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.

Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị…

Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của nó là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh.

3. Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của 3 mặt sau:

Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi, sông, mưa,…). Sự trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc các thông tin cần thiết.

Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.

Ba là, chủ thể chuyển mô hình từ trong óc ra hiện thực khách quan. Đây là qúa trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn để biến quan niệm của mình thành dạng vật chất trong cuộc sống. Ví dụ như con người sẽ xây cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết kế đã có ở bước 2 ở trên.

Nguồn gốc của ý thức

1. Nguồn gốc tự nhiên

Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, các nhà duy vật biện chứng cho rằng, nguồn gốc tự nhiên của ý thức có hai yếu tố không thể tách rời nhau là bộ óc con người  thế giới bên ngoài tác động lên óc người.

1.1. Bộ óc người

– Đây là một dạng vật chất sống đặc biệt, có tổ chức cao, trải qua quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của riêng dạng vật chất này.

Tức là, chỉ con người mới có ý thức. Không một kết cấu vật chất nào khác, kể cả những con vật thông minh nhất có năng lực này.

Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.

– Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì cũng không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài.

1.2. Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người

– Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.

Nói một cách dễ hiểu, phản ánh chính là sự chép lại, chụp lại, kể lại một cái gì đó. Chép lại lời nói ra giấy là sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng là sự phản ánh.

Để có quá trình phản ánh xảy ra, cần có vật tác động và vật nhận tác động.

– Đương nhiên, bộ óc người cũng có thuộc tính phản ánh. Nhưng phản ánh của bộ óc con người có trình độ cao hơn, phức tạp hơn so với các dạng vật chất khác.

Sau quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con người trở thành sản phẩm cao nhất, thì thuộc tính phản ánh của óc người cũng hoàn mỹ nhất so với mọi đối tượng khác trong tự nhiên.

Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý thức”. Đó là sự phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con người.

2. Nguồn gốc xã hội

Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao động, tức là thực tiễn xã hội và ngôn ngữ.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các cơ quan xã hội. Theo Ph. Ăng-ghen, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích biến đổi bộ não động vật thành bộ não người, biến tâm lý động vật thành ý thức con người.

2.1. Lao động

– Trong tự nhiên, con vật tồn tại nhờ những vật phẩm có sẵn như trái cây, côn trùng hoặc loài vật yếu hơn nó… Nhưng đối với con người thì khác.

Con người có khả năng và bắt buộc phải sản xuất ra những sản phẩm mới (bàn, ghế, quần áo, ti vi, tủ lạnh…), khác với những sản phẩm có sẵn. Tức là, con người phải lao động mới đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của mình.

Chính thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động thực tiễn, nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được, biết được nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế giới này.

– Nhưng ở đây, không phải bỗng nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con người có ý thứcÝ thức có được chủ yếu là do con người chủ động tác động vào thế giới khách quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm tạo ra những sản phẩm mới.

Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan, con người bắt những đối tượng trong hiện thực (núi, rừng, sông, mỏ than, sắt, đồng…) phải bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật của mình. Những bộc lộ này tác động vào bộ óc người để hình thành ý thức của con người.

2.2. Ngôn ngữ

– Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng với nhau, tức là nhu cầu nói chuyện được với nhau. Chính nhu cầu này đòi hỏi sự ra đời của ngôn ngữ, trước hết là tiếng nói, sau đó là chữ viết.

Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.

Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.

– Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ, con người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, tức là diễn đạt những khái niệm, phạm trù, để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính.

Cũng nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Câu hỏi ôn tập: 

Quan điểm bản chất của thế giới là ý thức là quan điểm của trường phái triết học nào

A. Duy vật

B. Duy tâm

C. Nhị nguyên

D. Tất cả đều sai

Lời giải:

Đáp án B

 

 

 

 

 

Tag: phân tích bày thức? thức” nào? vấn đúng hay

About admin

Công Ty Hoá Chất Hanimex - Hanimexchem.com Nhà nhập khẩu và phân phối các loại hóa chất công nghiệp , dung môi công nghiệp
Địa chỉ văn phòng : Số 01 - TT29 -Khu đô thị mới Văn Phú - P. Phú La - Hà Đông - Hà Nội
  • Phòng bán hàng: Mobile / Zalo : 0966.694.823
  • Email :thanhdat@hanimexchem.com
    Website : Hanimexchem.com