Axit Chlorogenic Và Những Điều Cần Biết
Chlorogenic acid là một nhóm hợp chất polyphenol hình thành thông qua liên kết ester giữa quinic acid với các trans-cinnamic acid (chủ yếu là caffeic acid, ferulic và p-coumaric acid) (Clifford, 1999). Chlorogenic acid được chia thành các nhóm nhỏ dựa vào cinnamicacid tham gia cấu tạo nên nó (caffeic, ferulic hay p-coumaric acid) cũng như vị trí ester hóa trên quinic acid.
Axit Chlorogenic Là Gì ?
Chlorogenic acid là một trong những nguyên nhân gây ra vị đắng trong cà phê. Có thể bạn chưa biết, ngoài tác động đến vị của cà phê, nó còn có rất nhiều điều thú vị khác liên quan đến sức khỏe con người.
Chlorogenic acid là một nhóm hợp chất polyphenol hình thành thông qua liên kết ester giữa quinic acid với các trans-cinnamic acid. Hạt cà phê nhân xanh (green bean coffee) hay hạt cà phê thô (raw bean coffee) là nguồn chlorogenic acid quan trọng trong thực phẩm của con người, với tổng lượng chlorogenic acid lên đến 4.1 – 11.3 g/100 g chất khô tùy thuộc giống.
Acid chlorogenic là chất chuyển hóa thứ cấp, do thay đổi nhiệt trong quá trình rang cà phê, hình thành lactones chlorogenic góp phần nâng cao vị đắng. Tuy nhiên, hàm lượng chlorogenic acid trong cà phê xanh cao có thể gây nên hương không mong muốn cho cà phê, do oxi hóa của các chất tạo thành trong quá trình rang.
Tác dụng của Axit Chlorogenic là gì ?
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tiêu thụ bột chiết cà phê xanh mà bạn có thể mua ở bất cứ nơi nào đều có rất nhiều tác dụng đối với sức khỏe con người như hạ huyết áp, ức chế sự tích tụ chất béo, hạn chế tăng trọng lượng cơ thể và điều chỉnh hàm lượng đường trong máu (Farah et al., 2008).
Các tác dụng tích cực này của bột chiết cà phê xanh là do sự có mặt của chlorogenic acid kháng oxi hóa, kháng viêm, kháng ung thư, chống béo phì, hạ huyết áp và chống co giật (Santana-Gálvez et al., 2017). Đặc biệt hơn nữa, những nghiên cứu mới cho thấy tác dụng có lợi của chlorogenic acid đối với Hội chứng chuyển hóa (Metabolic syndrome).
Hội chứng này được định nghĩa bao gồm một loạt các yếu tố sinh lý, hóa sinh, lâm sàng và chuyển hóa làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và tiểu đường type 2. Các biểu hiện của hội chứng bao gồm các rối chuyển hóa lipid máu (tăng cholesterol tổng số trong máu, tăng hàm lượng LDL-cholesterol, triglycerid, giảm hàm lượng HDL-cholesterol), huyết áp cao, đường máu cao, dễ viêm, gan nhiễm mỡ và ngưng thở khi ngủ. Hội chứng này được coi như hội chứng mang tính toàn cầu vì chi phí chữa trị cao và số người mắc ngày càng tăng ngay cả trong thanh niên và trẻ em (Santana-Gálvez et al., 2017).