Xét nghiệm cặn lắng nước tiểu là gì
Xét nghiệm soi cặn lắng nước tiểu để tìm các thành phần hữu hình trong nước tiểu như: hồng cầu, bạch cầu, tế bào biểu mô, các loại trụ hình, tinh thể. Có 2 cách: soi tươi và cặn Addis.
– Soi tươi: Có thể lấy nước tiểu giữa dòng vào buổi sáng hoặc bất kỳ trong ngày cho vào ống nghiệm, lấy một giọt nước tiểu không ly tâm soi tươi qua kính hiển vi với vật kính 10 X.
– Cặn Addis: 6 h sáng cho người bệnh đái hết nước tiểu trong đêm, ghi giờ, uống 200ml nước sôi để nguội. Sau đó bệnh nhân nằm nghỉ và đái gom vào bô (được rửa sạch bằng xà phòng). 9 giờ cho bệnh nhân đái lần cuối sau đó đo số lượng nước tiểu và ghi vào giấy xét nghiệm. Lấy 10ml nước tiểu mang tới khoa xét nghiệm.
Xét nghiệm cặn lắng nước tiểu dùng để làm gì?
Không chỉ là một phần của khám sức khỏe định kỳ, xét nghiệm cặn lắng nước tiểu được thực hiện để:
- Kiểm tra bệnh hoặc nhiễm trùng đường tiểu. Các triệu chứng của nhiễm đường tiểu có thể bao gồm nước tiểu có màu hoặc có mùi hôi, đau khi đi tiểu, đi tiểu buốt, đau sườn, máu trong nước tiểu hoặc sốt;
- Kiểm tra điều trị các bệnh như tiểu đường, sỏi thận, nhiễm trùng đường tiểu (UTI), cao huyết áp hoặc một số bệnh về thận hoặc gan.
Đánh giá kết quả
Bình thường:
Hồng cầu, bạch cầu niệu không có hoặc có rất ít, một vài tế bào dẹt do tế bào niêm mạc niệu quản thoái hoá, đôi khi có một vài tinh trùng (nếu ở nam giới).
– Soi tươi có 0 – 1 hồng cầu, 0-3 bạch cầu trong một vi trường.
– Cặn Addis: < 1000 hồng cầu và < 2000 bạch cầu/phút; không có trụ hồng cầu, trụ niệu, trụ bạch cầu.
Bất thường:
+ Đái ra hồng cầu vi thể:
– Soi tươi: 3 hồng cầu/vi trường (++).
5 hồng cầu/vi trường (+++).
– Cặn Addis: > 1000 hồng cầu/phút.
+ Đái máu đại thể: đái máu với số lượng nhiều, mắt thường nhìn thấy nước tiểu có màu hồng như nước rửa thịt cho đến màu đỏ, để lâu hồng cầu sẽ lắng xuống. Lượng máu tối thiểu bắt đầu làm thay đổi màu sắc nước tiểu vào khoảng 1 ml máu trong 1 lít nước tiểu. Soi tươi thấy hồng cầu dày đặc vi trường.
Có thể làm nghiệm pháp 3 cốc để chẩn đoán vị trí chảy máu. Cách làm: cho bệnh nhân đái một bãi chia làm 3 phần lần lượt vào 3 cốc thuỷ tinh. Nếu lượng máu nhiều nhất ở cốc đầu tiên thì thường là chảy máu ở niệu đạo; lượng máu nhiều nhất ở cốc thứ 3 thường chảy máu ở bàng quang; lượng máu tương đương ở cả 3 cốc thường chảy máu ở thận hoặc niệu quản. Tuy nhiên, liệu pháp này chỉ có tính chất tương đối. Muốn xác định chính xác thì cần phải có nhiều xét nghiệm khác.
Trong lâm sàng, đái ra hồng cầu gặp trong các bệnh viêm cầu thận, lao thận và sỏi tiết niệu (sỏi đài-bể thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang), viêm bàng quang, ung thư bàng quang; có thể do các bệnh toàn thân (bệnh hệ thống tạo máu, rối loạn quá trình đông máu). Khoảng 1% các trường hợp đái ra máu không tìm thấy nguyên nhân.
+ Đái ra bạch cầu:
– Soi tươi:
Đái ra BC khi: 3 – 5 BC/vi trường (+)
> 5 BC/vi trường (++)
> 10 BC/vi trường (+++)
> 20 BC/vi trường (++++).
– Cặn Addis > 2000 BC/phút.
Trong lâm sàng khi BC (+++) hoặc (++++) là có nhiễm khuẩn tiết niệu. Nếu có trụ BC càng chắc chắn lầ viêm đường tiết niệu. > 30 BC/vi trường (BC dày đặc vi trường) và có nhiều BC thoái hoá: được gọi là đái ra mủ. Trong các trường hợp này, nước tiểu nhìn bằng mắt thường có nhiều vẩn đục gặp trong viêm thận-bể thận cấp và mãn.
+ Đái ra trụ hình: trụ hình là các cấu trúc hình trụ có trong nước tiểu. Bản chất của trụ là mucoprotein, là một loại protein do tế bào ống thận bị tổn thương tiết ra gọi là protein Tam-Holsfall và protein từ huyết tương lọt qua cầu thận vào nước tiểu. Trong điều kiện được cô đặc và pH nước tiểu axit, chúng bị đông đặc và đúc khuôn trong ống lượn xa rồi bong ra theo nước tiểu.
Trụ niệu là biểu hiện tổn thương thực thể ở cầu thận hoặc ống thận. Có hai loại trụ: trụ không có tế bào và trụ có tế bào. Trụ có tế bào là các trụ có chứa xác các tế bào (tế bào biểu mô ống thận, tế bào bạch cầu, tế bào hồng cầu …). Thể loại trụ có giá trị gợi ý cho chẩn đoán bệnh, còn số lượng trụ không nói lên mức độ nặng hay nhẹ của bệnh. Người ta phân chia các loại trụ như sau:
– Trụ trong: hay trụ hyalin bản chất là protein chưa thoái hoá hoàn toàn, không có tế bào.
– Trụ keo: do tế bào thoái hoá.
– Trụ sáp: protein đã thoái hoá.
– Trụ mỡ: chứa những giọt mỡ, gặp trong HCTH.
– Trụ hạt: chứa protein và xác các tế bào biểu mô ống thận, hay gặp trong viêm cầu thận mãn. Trụ hạt màu nâu bẩn gặp trong suy thận cấp.
– Trụ hồng cầu: chứa các hồng cầu từ cầu thận xuống, gặp trong viêm cầu thận cấp.
– Trụ bạch cầu: chứa xác các tế bào bạch cầu, tổn thương từ nhu mô thận, gặp trong viêm thận-bể thận cấp và mãn.
+ Các thành phần cặn lắng khác trong nước tiểu:
– Tinh thể: phosphat, oxalatcanxi, tinh thể urat, tinh thể cystin. Nếu các tinh thể có nhiều sẽ nguy cơ tạo sỏi.
– Tế bào ung thư: gặp trong ung thư thận-tiết niệu.
– Tế bào biểu mô: nếu thấy nhiều là viêm nhiễm đường tiết niệu.
– Thể lưỡng triết quang: là thành phần ester của cholesterol dưới dạng hạt mỡ, trụ mỡ gặp trong hội chứng thận hư.
Tag: trắng đọc tiếng anh bể bài giảng lớp lơ lửng ối hồ bơi tầng cá nấu sữa bắp chống enterogermina phụ gia tượng ảnh hóa kỹ thuật mật ong mắm phương quy bột tốc